CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Bệnh học--Ung thư

  • Duyệt theo:
1 Khảo sát hoạt tính kháng ung thư và kháng viêm của hai dẫn xuất curcumin bằng phương pháp mô phỏng phiếm hàm mật độ và docking phân tử / Trịnh Thị Bích Duyên, Trương Đình Hiếu, Đào Duy Quang // .- 2024 .- Số 02 (63) - Tháng 4 .- Tr. 24-36 .- 616

Trong nghiên cứu này, mô phỏng lý thuyết phiếm hàm mật độ và docking phân tử được sử dụng để khảo sát hoạt tính kháng hai loại ung thư vú (Phosphoinositide 3–kinase, PI3K; Protein kinase B, AKT) và kháng viêm (Glucosamine 6-phosphate synthase, GLCN6P) của hai dẫn xuất curcumin khác nhau, gồm curcumin-I (Cur-I), và curcumin-III (Cur-III) ở dạng diketon và ketoeno.

2 Lựa chọn bó mạch nhận trong tạo hình vú tức thì sau cắt bỏ tuyến vú do ung thư bằng vạt nhánh xuyên động mạch thượng vị sâu dưới / Phạm Thị Việt Dung, Phan Tuấn Nghĩa // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2022 .- Số 4(Tập 152) .- Tr. 145-151 .- 610

Nhằm nhận xét ưu, nhược điểm khi sử dụng bó mạch vú trong (IMVs) và ngực lưng (TDVs) là mạch nhận trong tạo hình vú tức thì sau cắt bỏ tuyến vú toàn bộ do ung thư bằng vạt nhánh xuyên động mạch thượng vị sâu dưới và đưa ra quan điểm về việc lựa chọn một trong hai bó mạch này. Vạt mạch xuyên động mạch thượng vị sâu dưới (D.I.E.P) là vạt da mỡ được nuôi dưỡng bởi nhánh xuyên động mạch thượng vị sâu dưới. Vạt D.I.E.P dưới dạng tự do ngàng càng được sử dụng nhiều trong tạo hình vú tức thì sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú toàn bộ do có nhiều ưu điểm. IMVs và TDVs là lựa chọn hàng đầu làm bó mạch thận trong tạo hình vú sử dụng vạt D.I.E.P. Không có sự khác biệt về sức sống, biến chứng cũng như hình thể vú sau mổ ở hai nhóm. Với cách đặt vạt chéo đều có thể sử dụng IMVs hoặc TDVs làm mạch nhận, nếu động mạch ngực lưng đảm bảo cấp máu tốt và nhánh xuyên bên đối diện không nghi ngờ tổn thương trong quá trình phẫu tích, nên lựa chọn TDVs để tiết kiệm thời gian và tránh nguy cơ biến chứng từ việc cắt sụn sườn.

3 Đánh giá kết quả điều trị u nguyên bào võng mạc bằng truyền hóa chất động mạch mắt / Nguyễn Thái Hoàng, Vũ Đăng Lưu, Nguyễn Quang Anh, Nguyễn Hữu An, Nguyễn Tất Thiện, Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Thị Minh Châu, Nguyễn Thành Nam, Lê Thị Lan Anh // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2022 .- Số 4(Tập 152) .- Tr. 33-41 .- 610

Nhằm đánh giá kết quả điều trị u nguyên bào võng mạc bằng truyền hóa chất động mạch mắt. U nguyên bào võng mạc là khối u thuộc nhóm u nguyên bào thần kinh, phát sinh từ tế bào nón trên võng mạc. Truyền hóa chất qua động mạch mắt có ý nghĩa trong điều trị bảo tồn thị lực cũng như thời gian sống thêm của bệnh nhân u nguyên bào võng mạc. Trên siêu âm phát hiện 9/27 khối u có hình ảnh vôi hóa chiếm 23,4% tổng số khối u. Trên phim cộng hưởng từ phát hiện 5/25 khối u có hình ảnh vôi hóa chiếm 13,5% tổng khối u. Tỉ lệ phát hiện bệnh trên phim cộng hưởng từ/ số bệnh nhân 85%. 97% bệnh nhân dùng Melphalan đơn thuần, 3% dùng hỗn hợp thuốc Carboplatin, Topotecan, Alkeran. Tại thời điểm 3,6,9 tháng, theo dõi được 100% số bệnh nhân (30 mắt), trong đó mắt còn được bảo tồn chiếm lần lượt là 76,7%, 70% và 66,7%. Sau 12 tháng có 58,6% mắt được bảo tồn trong tổng số 29 mắt theo dõi, 1 mắt chưa đủ thời gian theo dõi. Sau 15 tháng có 55,6% mắt được bảo tồn trong số 27 mắt được theo dõi, 2 mắt chưa đủ thời gian theo dõi. Sau 18 tháng có 41,7% mắt được bảo tồn trong số 27 mắt được theo dõi, 3 mắt chưa đủ thời gian theo dõi. U nguyên bào võng mạc có thể phát hiện qua khám lâm sàng kết hợp hình ảnh siêu âm và cộng hưởng từ. Truyền hóa chất qua đường động mạch mắt điều trị u nguyên bào võng mạc có hiệu quả giảm kích thước khối u, có tỉ lệ đáp ứng điều trị cao.