35791Kiến thức về triều Nguyễn Huế xưa
Giới thiệu lịch sử, con người và vẻ đẹp Huế qua các bài viết ngắn: Nơi sinh ra cây tùng, cây Bách, nghĩ về 1 Festival thơ Huế, Huế - chuyện 100 năm trước... Một số bài tham luận nghiên cứu về triều Nguyễn, Kinh thành Huế.
35792Kiến thức, thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng tại Trung tâm y tế huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên
Mô tả kiến thức và thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng; Xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức đối với tổn thương vật sắc nhọn của điều dưỡng.
35793Kiến thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản của sinh viên nữ khối Khoa học sức khỏe, Trường Đại học Duy Tân
Ngày nay, tình trạng quan hệ tình dục không an toàn ở sinh viên Việt Nam rất phổ biến, do đó việc tuyên truyền các biện pháp tránh thai phù hợp cho lứa tuổi này là hết sức quan trọng, để làm giảm tình trạng có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai ở lứa tuổi thanh thiếu niên, các bệnh lây truyền đường tình dục. Bài báo nghiên cứu thực trạng về sức khỏe sinh sản ở sinh viên với mục tiêu khảo sát kiến thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản của sinh viên và các yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 530 đối tượng là sinh viên nữ từ năm 1 đến năm 4 thuộc khối ngành Khoa học sức khỏe Trường Đại học Duy Tân, sử dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn và thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi soạn sẵn với hình thức tự điền giấu tên. Kết quả: tỷ lệ sinh viên có kiến thức, thái độ và hành vi tốt về sức khỏe sinh sản lần lượt là 37,9%, 23,4% và 82,6%. Kết luận: Thực trạng kiến thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản của sinh viên nữ thuộc khối Khoa học sức khỏe Trường Đại học Duy Tân còn hạn chế trong khi nhu cầu tìm hiểu về vấn đề sức khỏe sinh sản khá cao. Do vậy, cần tăng cường giáo dục về sức khỏe sinh sản để sinh viên nâng cao hiểu biết cũng như chủ động bảo vệ sức khỏe cho bản thân và cộng đồng.
35794Kiến thức, thái độ và rào cản tiếp cận dịch vụ chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ ở người chăm sóc
Khảo sát kiến thức về rối loạn phổ tự kỷ và thái độ, rào cản tiếp cận dịch vụ chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ ở người chăm sóc trẻ tự kỷ. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: 150 người chăm sóc trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ được đưa vào nghiên cứu. Kết quả có 73,3% người chăm sóc trẻ đã từng được tiếp cận kiến thức về rối loạn phổ tự kỷ nhưng hầu hết tổng điểm kiến thức ở mức trung bình và dưới trung bình (62,8% và 31,8%). Nguồn tiếp cận kiến thức chủ yếu từ Internet (89,1%), trong khi nguồn từ nhân viên y tế (12,7%) và trường học (9,1%) còn thấp. Kiến thức tốt hơn ở nhóm người chăm sóc có trình độ từ trung cấp trở lên, nhóm có nghề nghiệp là cán bộ viên chức và nhóm sống ở khu vực thành thị (p < 0,05). Có 84,7% người chăm sóc đã có thái độ trì hoãn không cho trẻ đi khám ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường. Khi phát hiện trẻ có bất thường về phát triển 49,4% người chăm sóc đưa trẻ đi khám tại các phòng khám nhi, chỉ 18,1% trẻ được khám tại phòng khám chuyên khoa tâm thần. Rào cản tiếp cận chẩn đoán chủ yếu do còn thiếu kiến thức và nhận thức: Có 66,3% người chăm sóc cho rằng những bất thường mà họ thấy ở trẻ không phải là bệnh nên không cần đi khám, 87,3% người chăm sóc muốn chờ đợi thêm, 44% bị ảnh hưởng bởi ý kiến gia đình; 8,7% từng khám nhưng được bác sĩ kết luận trẻ bình thường hoặc mắc bệnh khác dẫn đến chủ quan. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy phần lớn người chăm sóc vẫn chưa có đủ kiến thức và thái độ chủ động trong việc đưa trẻ đi khám dẫn tới những rào cản tiếp cận chẩn đoán do thiếu hiểu biết. Do đó, việc tăng cường truyền thông, nâng cao kiến thức về rối loạn phát triển cho cộng động là vô cùng quan trọng giúp cải thiện khả năng phát hiện và can thiệp sớm cho trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ.
35795Kiến thức, thái độ và thực hành của điều dưỡng viên về chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện 09
Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của điều dưỡng viên trong việc chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện 09, Hà Nội năm 2013.
35796Kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay phòng bệnh của sinh viên ngành Điều dưỡng Đa khoa năm 2 trường Đại học Duy Tân - Đà Nẵng
Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành rửa tay thường quy của sinh viên ngành điều dưỡng đa khoa năm 2 trường Đại học Duy Tân Đà Nẵng năm 2017.
35797Kiến thức, thái độ về các yếu tố nguy cơ, dấu hiệu cảnh báo sớm của đột quỵ và các yếu tố liên quan ở sinh viên khối khoa học sức khoẻ trường đại học Duy Tân
Mô tả kiến thức, thái độ về bệnh đột quỵ, yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo sớm của đột quỵ ở sinh viên khối Khoa học sức khỏe Trường Đại Học Duy Tân. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ đối với bệnh đột quỵ, yếu tố nguy cơ và dấu hiệu cảnh báo sớm của đột quỵ ở sinh viên khối Khoa học sức khỏe trường Đại Học Duy Tân.
35798Kiến thức, thái độ về chính sách y tế của sinh viên năm cuối hệ bác sĩ trường Đại học Y Hà Nội và một số yếu tố liên quan
Mô tả kiến thức, thái độ về chính sách Bảo hiểm y tế và chính sách hành nghề khám chữa bệnh của sinh viên Y khoa năm cuối hệ bác sĩ trường Đại học Y Hà Nội và tìm hiểu một số yếu tố liên quan.
35799Kiến thức, thái độ về hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể của sinh viên y dược Đại học Quốc gia Hà Nội
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kiến thức, thái độ về hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể người của sinh viên Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 417 sinh viên y dược Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội từ tháng 10/2023 đến tháng 2/2024.
35800Kiến thức, thái độ về hồi sức tim phổi trẻ em của điều dưỡng Bệnh viện Quốc tế Mỹ
Đánh giá kiến thức và thái độ của điều dưỡng tại Bệnh viện Quốc Tế Mỹ về hồi sức tim phổi (CPR) nhi khoa và xác định các yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 8/2024 đến tháng 1/2025 trên 105 điều dưỡng. Kiến thức và thái độ được đánh giá bằng bảng hỏi chuẩn hóa. Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức và thái độ tốt về CPR nhi khoa lần lượt là 38,1% và 40%. Kiến thức CPR tốt có liên quan đến trình độ học vấn cao (p=0,036). Các khía cạnh kiến thức còn hạn chế bao gồm xử trí ban đầu khi nghi ngờ ngừng tim, kỹ thuật ấn tim, hô hấp nhân tạo, và tỷ lệ ấn tim/thổi ngạt. Thái độ tích cực thấp ở các khía cạnh liên quan đến sử dụng máy sốc điện tự động và hà hơi thổi ngạt. Kết luận: Kiến thức và thái độ của điều dưỡng về CPR nhi khoa còn hạn chế. Cần tăng cường đào tạo và huấn luyện, đặc biệt về sử dụng máy sốc điện và kỹ năng thực hành, để cải thiện kết quả CPR ở trẻ em.





