34541Khảo sát nồng độ EBV-DNA huyết tương sau điều trị của Bệnh nhân ung thư vòm mũi họng và mối liên quan với mức độ đáp ứng
Định lượng nồng độ EBV-DNA huyết tương sau điều trị hóa, xạ trị hoặc hóa xạ trị kết hợp của bệnh nhân ung thư vòm mũi họng. Tìm hiểu mối tương quan giữa nồng độ EBV-DNA huyết tương sau điều trị với mức độ đáp ứng của bệnh nhân ung thư vòm mũi họng.
34542Khảo sát nồng độ estradiol huyết tương ở bệnh nhân nữ bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối thận nhân tạo chu kỳ
Khảo sát nồng độ estradiol huyết tương ở 67 bệnh nhân nữ bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối thận nhân tạo chu kỳ so với 34 người khỏe mạnh cùng trong độ tuổi từ 30-50. Kết quả cho thấy nồng độ estradiol huyết tương trung bình ở nhóm bệnh nhân là 85,3 ± 33,1 pmol/l thấp hơn so với nhóm chứng (205,3 ± 51pmol/l). Có 68,7% bệnh nhân giảm nồng độ estradiol huyết tương. Nồng độ estradiol huyết tương tương quan nghịch với nồng độ creatinin máu, tương quan thuận với nồng độ hemoglobin, albumin máu với hệ sống tương quan lần lượt là r = -0,45; 0,67; 0,43.
34543Khảo sát nồng độ glucagon like peptide 1 ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 chẩn đoán lần đầu
Khảo sát nồng độ glucagon-like peptide-1 (GLP-1) ở 170 bệnh nhân tiểu đường typ 2 chẩn đoán lần đầu với 52 người bình thường tại bệnh viện Nội tiết Trung ương. Kết quả cho thấy nồng độ trung bình GLP-1 khi đói là 7,31 ± 3,65pmol/l. Nồng độ trung bình sau ăn 2 giờ là 12,82 ± 4,37pmol/l. Nồng độ trung bình GLP-1 khi đói và sau ăn 2 giờ làm nghiệm pháp của nhóm bệnh nhân đái tháo đường typ 2 thấp hơn so với nhóm người bình thường.
34544Khảo sát nồng độ M2BPGi ở bệnh nhân viêm gan B mạn và xơ gan do viêm gan B
Viêm gan B mạn là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến xơ gan tại Việt Nam, do đó việc phát hiện sớm giai đoạn xơ hóa là rất quan trọng trong quản lý bệnh. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu là khảo sát nồng độ M2BPGi và các yếu tố liên quan ở hai nhóm bệnh nhân viêm gan B mạn và xơ gan do viêm gan B. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang trên 90 bệnh nhân VGB mạn tính và 52 bệnh nhân xơ gan do VGB được thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa Gan mật từ tháng 8/2023 đến tháng 6/2024.
34545Khảo sát nồng độ procalcitonin huyết thanh và kết quả cấy máu trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết tại Bệnh viện A Thái Nguyên
Procalcitonin (PCT) là một marker sinh học có giá trị cao được chỉ định phổ biến để để chẩn đoán và theo dõi tình trạng viêm do nhiễm khuẩn. Mục tiêu: Khảo sát nồng độ procalcitonin huyết thanh ở những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết cấy máu dương tính và đánh giá mối liên quan giữa nồng độ procalcitonin huyết thanh với các tác nhân vi khuẩn gây bệnh phân lập được. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 278 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết tại Bệnh viện A Thái Nguyên từ tháng 01-9/2024. Kết quả: Trung vị nồng độ PCT huyết thanh nhóm cấy máu dương (22,1 ng/ml), cao hơn so với nhóm cấy máu âm (8,32 ng/ml) với p<0,05. Diện tích dưới đường cong 0,682 (p<0,01), điểm cắt phân biệt nhiễm khuẩn huyết cấy máu âm hoặc dương tính là 5,4 ng/ml với độ nhạy 54,8% và độ đặc hiệu 80,6%. Nồng độ PCT huyết thanh trung bình của nhóm vi khuẩn gram âm là 20,6ng/ ml, cao hơn so với nhóm vi khuẩn gram dương là 0,7ng/ml, l với p < 0,05. Diện tích dưới đường cong là 0,791 với p <0,01 , điểm cắt phân biệt nhiễm khuẩn huyết do vi khuẩn gram dương hoặc âm là 9,16 ng/ml với độ nhạy 61% và độ đặc hiệu 76,2%. Kết luận: PCT có giá trị phân biệt giữa nhiễm khuẩn huyết cấy máu dương tính với âm tính và nhiễm khuẩn huyết do vi khuẩn gram âm và gram dương.
34546Khảo sát nồng độ PSA ở những nam giới có triệu chứng đường tiểu dưới trên 45 tuổi tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Nhằm khảo sát nồng độ PSA ở những nam giới có triệu chứng đường tiểu dưới trên 45 tuổi tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. PSA là một kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt. Tuy nhiên PSA lại không đặc hiệu cho ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy, để cá thể hóa nồng độ PSA trong thực hành lâm sàng thì việc tìm hiểu phân bổ nồng độ PSA của người bệnh là điều quan trọng. Kết quả cho thấy nồng độ PSA trung bình là 1,85ng/ml, phần lớn các trường hợp có giá trị PSA dưới 4 ng/ml. Nồng độ PSA tăng theo các nhóm tuổi, nhóm triệu chứng tống suất, nhóm thể tích tuyến tiền liệt. Ngoài ra, tuổi và kích thước tuyến là hai yếu tố có giá trị tiên lượng nồng độ PSA. Khi tăng 1 tuổi thì nồng độ PSA tăng lên 0,09ng/ml và khi tăng 1ml thể tích tuyến tiền liệt thì nồng độ PSA tăng lên 0,1ng/ml.
34547Khảo sát nồng độ TNF-α và mối tương quan với các chỉ số bạch cầu trên chuột điều trị kết hợp ức chế PD-1 và tế bào CAR-T
Mục đích của nghiên cứu nhằm khảo sát mối tương quan giữa các chỉ số bạch cầu với nồng độ TNF-α của liệu pháp điều trị kết hợp kháng thể đơn dòng ức chế PD-1 với tế bào CAR-T trên thực nghiệm. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, tiến cứu, can thiệp có so sánh nhóm chứng. 60 chuột nhắt trắng chia 4 nhóm, mỗi nhóm 15 con gồm: nhóm chứng, nhóm điều trị tế bào CAR-T, nhóm điều trị kháng thể đơn dòng ức chế PD-1, nhóm điều trị kết hợp kháng thể đơn dòng ức chế PD-1 với tế bào CAR-T. Sau điều trị, theo dõi tình trạng toàn thân, xét nghiệm các chỉ số bạch cầu và nồng độ TNF-α.
34549Khảo sát phân tử mục tiêu tiềm năng của các vị thuốc bạch chỉ, xuyên khung, hương phụ trên bệnh viêm phổi do Sarscov-2 bằng tin sinh học và mô phỏng In Silico
Phân tích tin sinh học tác dụng sinh học tiềm năng của 3 vị thuốc Bạch chỉ, Xuyên khung, Hương phụ trên bệnh viêm phổi do SARS-CoV-2. Phân tích khả năng tương tác in silico giữa một số hoạt chất chính của các vị thuốc trên đối với mục tiêu phân tử của virus SARS-CoV-2.
34550Khảo sát phản ứng của mắt và cơ thể trẻ em với Bevacizumab
Nghiên cứu phản ứng của cơ quan thị giác và của cơ thể trẻ em có khối u rắn ác tính với liều cao bevacizumab toàn thân (cao hơn 1500 lần so với liều tiêm nội nhãn) để xác định khả năng tiêm nội nhãn bevacizumab với trẻ em trong điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non. Sau khi bệnh nhân được điều trị bằng bevacizumab, bệnh nhân được xác định mức độ độc tính của thuốc theo các khuyến nghị của CTC – NCIC. Ngoài ra, tất cả bệnh nhân còn được trải qua khám lâm sàng bởi các bác sĩ chuyên khoa sơ sinh và nhãn khoa. Những thay đổi về cơ quan thị giác và toàn thân sau khi sử dụng bevacizumab là rất ít và không nghiêm trọng. Thị lực và nhãn áp không thay đổi so với trước khi điều trị (p > 0,3). Nghiên cứu đã nhận thấy sức đề kháng của mô mắt lớn hơn các mô khác trong cơ thể và chất ức chế hình thành tân mạch không gây ra các thay đổi bệnh lý ở mắt. Nghiên cứu này cho phép chúng tôi cân nhắc chuyển sang giai đoạn sử dụng bevacizumab tiêm nội nhãn trong bệnh lý võng mạc ở trẻ sinh non.





