CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Y

  • Duyệt theo:
1501 Hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe liên quan tới tiêm phòng Sởi-Rubella cho người chăm sóc trẻ 18-24 tháng tuổi, nữ độ tuổi sinh đẻ tại Hà Nội / Đỗ Thị Thanh Toàn, Vũ Bích Diệp, Dương Thị Hồng // .- 2019 .- Số 121(5) .- Tr. 123-131 .- 610

Tìm hiểu thực trạng hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe liên quan tới tiêm phòng Sởi – Rubella cho người chăm sóc trẻ 18-24 tháng tuổi và nữ độ tuổi sinh đẻ tại Hà Nội.

1502 Kiểm định thang đo sức khỏe răng miệng với chất lượng cuộc sống của trẻ mầm non tại Tỉnh Thái Nguyên / Lê Thị Thu Hằng // .- 2019 .- Số 121(5) .- Tr. 132-138 .- 610

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện với mục tiêu kiểm định thang đo sức khỏe răng miệng liên quan chất lượng cuộc sống (MOHRQoL-Michigan Oral Health-Related Quality of Life) trên một nhóm trẻ mầm non ở Thái Nguyên. Phỏng vấn trực tiếp 349 trẻ cùng phụ huynh theo bộ phiếu điều tra thiết kế sẵn dựa trên bộ công cụ MOHRQoL được thực hiện tại Trường Mầm non 19.5. Kết quả nghiên cứu đã xác định tính tin cậy của thang đo MOHRQoL (Cronbach’s Alpha=0,83) gồm 4 thành phần: Đau/khó chịu, ảnh hưởng sinh hoạt, tinh thần-thẩm mỹ, khớp thái dương hàm với 18 biến số quan sát. Các biến số quan sát có mối tương quan với nhau và đều có trọng số đạt yêu cầu (>0,5), 4 nhóm nhân tố được trích với tổng phương sai trích đạt yêu cầu (55,8%). Áp dụng thang đo MOHRQoL trong đánh giá sức khỏe răng miệng liên quan chất lượng cuộc sống là phù hợp với trẻ 4-5 tuổi tại Thái Nguyên.

1503 Ý định hút thuốc lá điện tử của nam giới ở Hà Nội - ứng dụng lý thuyết hành vi được lập kế hoạch / Trần Thị Phượng, Phạm Bích Diệp // .- 2019 .- Số 121(5) .- Tr. 146-154 .- 610

Nghiên cứu ứng dụng mô hình lý thuyết hành vi được lập kế hoạch để phân tích một số yếu tố liên quan đến ý định sử dụng thuốc lá điện tử của nam giới từ 18 tuổi tại Hà Nội năm 2018. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 151 người được chọn mẫu thuận tiện. Kết quả phân tích cho thấy ba nhân tố là “thái độ về lợi ích”, “chuẩn chủ quan từ phía bạn bè” và “nhận thức kiểm soát hành vi” về sử dụng thuốc lá điện tử có liên quan tích cực đến ý định sử dụng thuốc lá điện tử, trong đó “nhận thức kiểm soát hành vi về sử dụng thuốc lá điện tử” có liên quan mạnh nhất. Các chương trình truyền thông cần tác động vào đối tượng để họ nhận ra được tác hại của thuốc lá điện tử đồng thời đưa ra các chính sách phù hợp nhằm hạn chế quảng cáo và kinh doanh thuốc lá điện tử.

1504 Tình trạng dinh dưỡng và chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư đường tiêu hoá sau 2 tháng điều trị hoá chất tại Bệnh Viện Đại Học Y Hà Nội / Phạm Thị Tuyết Chinh, Nguyễn Thùy Linh, Tạ Thanh Nga, Lê Thị Hương // .- 2019 .- Số 120(4) .- Tr. 1-8 .- 610

Xác định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng và chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư sau 2 tháng điều trị hóa chất. Với phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 88 người bệnh ung thư đường tiêu hóa sau 2 tháng điều trị hóa chất đã cho kết quả: tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) được đo lường thông qua chỉ số khối cơ thể (BMI) là 23,9%. Theo phân loại PG–SGA: có 40,9% người bệnh ung thư có SDD hoặc nguy cơ SDD.

1505 Tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân ung thư khoang miệng tại Bệnh Viện K năm 2018 / Hoàng Việt Bách [et al.] // .- 2019 .- Số 120(4) .- Tr. 9-18 .- 610

Nghiên cứu nhằm xác định tình trạng dinh dưỡng và mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng trên bệnh nhân ung thư khoang miệng. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 165 bệnh nhân, độ tuổi từ 18 trở lên, trong thời gian từ tháng 5 năm 2018 đến tháng 12 năm 2018. Kết quả: có 63,0% bệnh nhân nhập viện có nguy cơ suy dinh dưỡng (SDD) theo bộ công cụ PG-SGA, 19,4% bệnh nhân bị SDD theo thang phân loại BMI. Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố như phương pháp điều trị, giai đoạn bệnh, phương pháp chuẩn bị chế độ ăn liên quan với tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân. Bệnh nhân ăn qua đường miệng có nguy cơ SDD thấp hơn 9 lần so với những bệnh nhân ăn qua sonde (OR (95% CI): 8,8 (1,1-71,8)). Kết luận: Bệnh nhân ung thư khoang miệng có nguy cơ SDD cao. Những bệnh nhân có tình trạng diễn biến nặng, nuôi ăn qua sonde có nguy cơ SDD cao hơn hẳn những bệnh nhân khác. Cần có những can thiệp cụ thể và kịp thời để cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân.

1506 Nuôi cấy tăng sinh tế bào tcd8 ở bệnh nhân ung thư phổi / // Nghiên cứu Y học (Điện tử) .- 2018 .- Số 115 (6) .- Tr. 8-15 .- 610

Liệu pháp miễn dịch sử dụng tế bào lympho tự thân là một trong những liệu pháp điều trị kết hợp an toàn và khá hiệu quả cho nhiều loại ung thư hiện nay, trong đó có ung thư phổi. Mục đích của nghiên cứu là hoàn thiện quy trình tách chiết, nuôi cấy và hoạt hóa tế bào TCD8 từ bệnh nhân ung thư phổi. 10 bệnh nhân ung thư phổi được lựa chọn vào nghiên cứu, mỗi bệnh nhân được thu thập 10 ml máu chống đông trong heparin, tiến hành tách chiết, nuôi cấy, hoạt hóa và đánh giá. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng tế bào bạch cầu đơn nhân tách được từ 10ml máu ngoại vi của bệnh nhân ung thư phổi trung bình là (5,13 ± 2,97) x 106 tế bào. Số lượng tế bào trung bình thu được sau nuôi cấy là (3,9 ± 1,45) x 109 tế bào, tỷ lệ sống trung bình đạt 90,37% ± 1,88%. Trong đó, tỷ lệ tế bào TCD4 chiếm 22,1% ± 9,59 %, TCD8 chiếm 66,11% ± 11,02%. Không phát hiện thấy sự có mặt của vi khuẩn, mycoplasma và nội độc tố trong môi trường sau nuôi cấy.

1507 Mối liên quan giữa đa hình nucleotide đơn XRCC1 ARG399GLN với nguy cơ mắc lupus ban đỏ hệ thống / // .- 2018 .- ố 115(6) .- Tr. 16-24 .- 610

Nhiều bằng chứng cho thấy tổn thương DNA có liên quan đến sự phát triển bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE). XRCC1 là một trong những protein đóng vai trò quan trọng trong cơ chế sửa chữa cắt bỏ base (BER). Do đó, chúng tôi tập trung vào đa hình Arg399Gln của gen XRCC1 trong tính nhạy cảm với SLE. DNA được tách chiết từ máu ngoại vi của 125 bệnh nhân SLE và 125 người khỏe mạnh. Xác định kiểu gen của đa hình XRCC1 Arg399Gln được thực hiện bằng kỹ thuật PCR - RFLP và được xác nhận bằng kỹ thuật giải trình tự DNA. Kết quả cho thấy tỉ lệ phân bố các kiểu gen Gln/Gln, Arg/Gln, Arg/Arg ở nhóm bệnh lần lượt là 12,8%, 39,2%, 48,0% và ở nhóm chứng lần lượt là 5,6%, 36,0%, 58,4%. Tỉ lệ alen Gln ở nhóm bệnh là 32,4%, ở nhóm chứng là 23,6%. Tỷ suất chênh (OR) đối với bệnh nhân SLE có kiểu gen Gln/Gln so với Arg/Gln hoặc Arg/Arg là 2,47 (95%CI = 0,98 - 6,24; p = 0,049). OR đối với alen 399Gln ở bệnh nhân SLE là 1,55 (95% CI = 1,05 - 2,30, p = 0,029). Nghiên cứu của chúng tôi xác nhận rằng đa hình XRCC1 Arg399Gln có thể làm tăng nguy cơ mắc SLE.

1508 Tính đa hình thái đơn RS2294008 GEN PSCA và nguy cơ với ung thư dạ dày / // .- 2018 .- Số 115(6) .- Tr. 25-31 .- 610

Gen PSCA (Prostate sterm cell antigen) mã hóa cho một protein bề mặt tế bào thuộc họ protein Thy-1/Ly-6, có vai trò trong sự bám dính và tăng sinh của tế bào. Đa hình đơn nucleotid (Single Nucleotide Polymorphism - SNP) tại vị trí rs2294008 trên gen PSCA với sự biến đổi nucleotid C > T làm thay đổi acid amin Met > Thr đã được công bố làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu xác định nguy cơ gây ung thư dạ dày của đa hình đơn nucleotid rs2294008 gen PSCA. 130 bệnh nhân ung thư dạ dày và 130 người nhóm chứng được lựa chọn vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy kiểu gen rs2294008 TT làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày 2,81 lần so với kiểu gen CC (95% CI = 1,02 - 7,74) và làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày 2,69 lần (95% CI = 1,01 - 7,18) so với kiểu gen CC + CT. Kết luận có sự tương quan giữa đa hình đơn nucleotid rs2294008 của gen PSCA với nguy cơ ung thư dạ dày ở người dân miền Bắc Việt Nam.

1509 Xác định đột biến trên một số exon trọng điểm của gen RB1 ở bệnh nhân ung thư võng mạc / // .- 2018 .- Số 115 (6) .- Tr. 1-7 .- 610

Ung thư võng mạc là một trong những khối u ác tính thường gặp nhất tại ổ mắt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, bệnh gây nên do đột biến gen RB1 làm mất hoặc giảm chức năng của protein RB1. Ở nước đang phát triển như Việt Nam, phần lớn các trường hợp đều phát hiện muộn và trẻ thường phải khoét bỏ nhãn cầu, thậm chí đe dọa tính mạng của trẻ. Phát hiện đột biến gen RB1 trên các bệnh nhân ung thư võng mạc là tiền đề quan trọng giúp phát hiện người lành mang bệnh và chẩn đoán trước sinh nhằm giảm tỷ lệ tử vong, tỷ lệ mù lòa ở trẻ. Đột biến trên gen RB1 thường là đột biến điểm và gặp nhiều ở một số exon trọng điểm trong đó có exon 10, 14, 20. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: xác định đột biến gen RB1 trên exon 10, 14, 20. 49 bệnh nhân ung thư võng mạc được lựa chọn nghiên cứu. Kỹ thuật giải trình tự gen được áp dụng để xác định đột biến điểm trên exon 10, 14 và 20. 5/49 (10,2%) bệnh nhân đã được phát hiện đột biến, trong đó 1 bệnh nhân phát hiện đột biến p.Trp680Cys và 1 bệnh nhân phát hiện đột biến p.Glu692Val_Leu693Ile trên exon 20, 1 bệnh nhân phát hiện đột biến p.Tyr452Phe trên exon 14, và 1 bệnh nhân phát hiện 2 đột biến: p.Tyr452Phe và p.Val455Glu trên exon 14. Bệnh nhân còn lại phát hiện đột biến p.Thr345Arg frameshift X6 trên exon 10. Tất cả các đột biến đều là đột biến dị hợp và là đột biến chưa từng được công bố.

1510 Xác định đột biến exon 2 gen rhoa trên bệnh nhân ung thư dạ dày thể lan tỏa / // .- 2018 .- Số 115 (6) .- Tr. 32-37 .- 610

Ung thư dạ dày thể lan tỏa là type ung thư có xu hướng xâm lấn dẫn đến di căn sớm và tỷ lệ sống thêm thấp. Không giống như ung thư dạ dày thể ruột nơi mà khối u có sự khuếch đại HER2 được điều trị bằng trastuzumab, thì chúng ta thiếu các liệu pháp điều trị đích hiệu quả cho ung thư dạ dày thể lan tỏa. Sự khác biệt này đang dần được làm sáng tỏ khi đột biến gen RHOA- gen mã hoá RhoA GTPase nhỏ được quan sát thấy ở các bệnh nhân ung thư dạ dày thể lan tỏa trong một số nghiên cứu gần đây. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành giải trình tự exon 2 gen RHOA cho 38 bệnh nhân ung thư dạ dày thể lan tỏa nhằm phát hiện đột biến exon 2 gen RHOA. Kết quả cho thấy tần số đột biến RHOA là 5,3% (2/38) với điểm nóng là Tyr42 trong chuỗi protein RHOA. Các đột biến này ảnh hướng đến vùng chức năng và gây nên những thiếu sót trong tín hiệu RHOA, điều khiển quá trình né tránh anoikis trong phát triển bào quan. Những nghiên cứu của chúng tôi có thể giúp tìm ra những liệu pháp điều trị đích đầy tiềm năng cho thể ung thư dạ dày tiên lượng nghèo nàn cũng như không có thuốc điều trị phân tử đích hữu hiệu này.