CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Hội đồng quản trị

  • Duyệt theo:
1 Tính đa dạng của hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động của ngân hàng / Trần Thị Tuyết Vân // .- 2024 .- Số 820 - Tháng 3 .- Tr. 104-106 .- 332.12

Hội đồng quản trị đa dạng là yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công và bền vững của một ngân hàng. Bài viết này phân tích tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm để xác định và hệ thống lại tầm ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị, đặc biệt là các chỉ số đa dạng tới hiệu quả ngân hàng. Kết quả cho thấy, tính đa dạng của hội đồng quản trị là những yếu tố đáng tin cậy để cải thiện hiệu quả hoạt động, mối liên hệ tương quan này đã được chứng minh bằng những chỉ số khác nhau, tại những quốc gia có đặc thù phát triển khác nhau. Điều này hàm ý các ngân hàng trên thế giới nên triển khai các chính sách cụ thể để có thể nâng cao tính đa dạng trong quy trình quản trị kinh doanh, từ đó cải hiện hoạt động, góp phần khai thác lợi nhuận tốt hơn.

2 Nghiên cứu về hoạt động của hội đồng quản trị liên kết qua phân tích trắc lượng thư mục / Cao Thị Nhân Anh, Nguyễn Ngọc Tiến // .- 2024 .- Số 821 - Tháng 3 .- Tr. 106-110 .- 657

Hội đồng quản trị là cơ quan điều hành cấp cao nhất trong công ty cổ phần, chịu trách nhiệm quản lý, giám sát quản lý và điều hành các hoạt động của doanh nghiệp. Sự “bận rộn” hoặc “liên kết” của các thành viên trong Hội đồng quản trị thể hiện khi họ đồng thời tham gia vào nhiều Hội đồng quản trị của các công ty khác nhau đang là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Bài viết này tổng quan các nghiên cứu về với mối quan hệ giữa sự bận rộn hoặc liên kết của Hội đồng quản trị trong lĩnh vực kế toán tài chính. Nghiên cứu sử dụng nguồn dữ liệu Scopus từ năm 1997 đến năm 2023 với 1.768 nghiên cứu về Hội đồng quản trị bận rộn (liên kết) để phân tích trắc lượng thư mục với sự hỗ trợ của phần mềm VOSviewer và Microsoft Excel. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ sử dụng nguồn dữ liệu từ Scopus nên kết quả phân tích có thể chưa bao quát được toàn bộ các nghiên cứu đã xuất bản. Những nghiên cứu tiếp theo có thể bổ sung thêm dữ liệu từ các nguồn khác để gia tăng tính khách quan của kết quả nghiên cứu.

3 Ảnh hưởng của giới tính nhân sự quản lý cấp cao đến tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn của doanh nghiệp / Nguyễn Bá Phong, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Thị Mỹ Phương, Đặng Thị Thanh Trúc, Trần Quốc Trung // Jabes - Nghiên cứu kinh tế và kinh doanh châu Á .- 2022 .- Số 12 .- Tr. 4-20 .- 658

Bài viết này nghiên cứu về ảnh hưởng của giới tính nhân sự quản lý cấp cao đến tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Với mẫu gồm 599 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2008-2020, kết quả nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp có CEO là nữ và tỷ lệ thành viên nữ trong hội đồng quản trị càng lớn thì có độ điều chỉnh cấu trúc vốn hướng đến mục tiêu càng cao. Bên cạnh đó, các phân tích mở rộng cho thấy quy mô của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ này, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì mối quan hệ càng chặt chẽ.

4 Khuôn khổ pháp lý về Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần / Bùi Đức Giang // Ngân hàng .- 2022 .- Số 23 .- Tr. 34-39 .- 658

Bài viết đưa lại góc nhìn tổng thể về hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần.

5 Ảnh hưởng của hội đồng quản trị đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sản xuất niêm yết ở Việt Nam / Đoàn Ngọc Phi Anh, Võ Văn Cương, Lê Hà Như Thảo // Nghiên cứu kinh tế .- 2022 .- Số 525 .- Tr. 76- 85 .- 658

Bài viết tập trung phân tích, đánh giá mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sản xuất và xác định ảnh hưởng của hội đồng quản trị đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất niêm yết ở Việt Nam. Đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

6 Các qui định của luật Doanh nghiệp năm 2020 về cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc, tổng công ty cổ phần - một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện / Trần Thăng Long, Phan Huy Lâm // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 2+3 (450+451) .- Tr.78 - 83 .- 346.066

Trong phạm vibài viết này, các tác giả phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc, những thành tố tạo nên khung pháp lý về quản trị công ty cổ phần và chỉ ra một số bất cập và đề xuất giải pháp hoàn thiện.

7 Thành viên nữ trong hội đồng quản trị và mức độ chấp nhận rủi ro tại các công ty niêm yết Việt Nam / Nguyễn Văn Quỳnh // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2021 .- Số 590 .- Tr. 29 - 30 .- 658

Bài báo nghiên cứu tác động của thành viên nữ trong hội đồng quản trị đến mức độ chấp nhận rủi ro. Sử dụng dữ liệu gồm các công ty phi tài chính niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2007 - 2017, kết quả hồi quy bằng phương pháp GMM hệ thống cung cấp bằng chứng cho thấy thành viên nữ trong hội đồng quản trị tác động nghịch chiều đến mức độ chấp nhận rủi ro tại các công ty phi tài chính niêm yết Việt Nam.

8 Đặc trưng của hội đồng quản trị và giá cổ phiếu : nghiên cứu điển hình tại các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam / Chu Thị Thu Thuỷ // Khoa học Thương mại .- 2020 .- Số 147 .- Tr. 46-52 .- 658

Nghiên cứu tác động của đặc trưng Hội đồng quản trị (HĐQT) đến giá cổ phiếu (MP) của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam bằng phương pháp hồi quy bội. Đặc trưng của HĐQT bao gồm số lượng thành viên HĐQT (BS), sự kiêm nhiệm của HĐQT và Ban giám đốc (Dual), số lượng thành viên độc lập (BI), số lượng các cuộc họp (BM), số lượng các thành viên nước ngoài (AB). Nghiên cứu sử dụng số liệu của 661 công ty cổ phần niêm yết TTCK Việt Nam năm 2018. Kết quả của nghiên cứu đã chỉ ra rằng BM có ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu trong khi các biến còn lại bao gồm BS và AB có ảnh hưởng tích cực đến giá cổ phiếu và hai biến Dual và BI không có ảnh hưởng đáng kể đến sự thay đổi của giá cổ phiếu.

9 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam / Ngô Mỹ Trân, Dương Trọng Nhân // Khoa học Thương mại .- 2020 .- Số 137+138 .- Tr. 75-85 .- 658

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị (HĐQT) của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Số liệu sử dụng được thu thập từ 602 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 2015 - 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố gồm tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư là tổ chức và quy mô công ty có ảnh hưởng tích cực đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng thống kê cho thấy quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên HĐQT là người nước ngoài, tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành, hiệu quả hoạt động của công ty, công ty có sử dụng dịch vụ kiểm toán của Big-4 và số năm niêm yết có ảnh hưởng đến xu hướng thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT.

10 Sự độc lập của hội đồng quản trị, tập trung quyền sở hữu và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp / Lê Thị Phương Vy, Trần Hoàng Sơn // Kinh tế & phát triển .- 2019 .- Số 270 .- Tr. 41-50 .- 658

Nghiên cứu kiểm tra tác động của tập trung quyền sở hữu đến mối quan hệ giữa hội đồng quản trị độc lập và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2010 đến 2017. Bằng cách sử dụng nhiều phương pháp hồi quy khác nhau OLS, FEM, REM, FGLS và GMM để kiểm soát vấn đề nội sinh, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng tính độc lập của hội đồng quản trị có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Đặc biệt, tác động tích cực của sự độc lập của hội đồng quản trị độc lập đối với hiệu quả hoạt động doanh nghiệp tăng lên khi sự tập trung quyền sở hữu giảm xuống sau khi kiểm soát các yếu tố quyết định khác ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây. Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng các kết quả này có ý nghĩa thống kê cao hơn ở những doanh nghiệp tư nhân kiểm soát so với doanh nghiệp nhà nước kiểm soát.