CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Luật

  • Duyệt theo:
11 Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự là tổ chức hành nghề luật sư / Nguyễn Huy Hoàng // .- 2023 .- Số 11 (171) - Tháng 11 .- Tr. 36-52 .- 340

Pháp nhân, bao gồm các tổ chức hành nghề luật sư, thực hiện dịch vụ đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự ngày càng phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Thực tiễn cho thấy các quy định pháp luật về pháp nhân là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự còn nhiều bất cập. Bài viết nêu một số khó khăn, vướng mắc để đưa ra những góp ý hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự là các tổ chức hành nghề luật sư.

12 Bàn về vấn đề thu hồi đất để sử dụng cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng / Trần Xuân Tây // .- 2023 .- Số 11 (171) - Tháng 11 .- Tr. 53-64 .- 340

Chuyển dịch đất đai (land conversion) là quá trình tất yếu ở cả các quốc gia. Ở Việt Nam, việc chuyển dịch đất đai để phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng được thực hiện theo cơ chế bắt buộc. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quy định của pháp luật cũng như việc thực thi thu hồi đất còn nhiều hạn chế, bất cập, ảnh hưởng lớn đến việc ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế đất nước. Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cũng có những thay đổi nhất định về vấn đề này nhưng chưa có sự đột phá. Vì vậy, bài viết này sẽ nghiên cứu nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thu hồi đất cho mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, từ đó góp phần ổn định quan hệ đất đai và đời sống kinh tế - xã hội.

13 Cơ chế kiểm soát tính công bằng của các điều khoản mẫu theo pháp luật liên minh châu âu và một số nước thành viên – gợi mở cho Việt Nam / Phan Hoài Nam, Trần Thị Ngọc Hà // .- 2023 .- Số 11 (171) - Tháng 11 .- Tr. 65-76 .- 340

Pháp luật Việt Nam đã có cơ chế kiểm soát tính công bằng của các điều khoản mẫu, tuy nhiên vẫn chưa thật sự hiệu quả trong việc đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tham gia hợp đồng. Bài viết tập trung tìm hiểu về cơ chế kiểm soát tính công bằng của các điều khoản mẫu trong pháp luật của Liên minh châu Âu và một số quốc gia thành viên. Từ đó, bài viết rút ra một số định hướng nhằm hoàn thiện cơ chế này ở Việt Nam.

14 Chính sách hỗ trợ phát triển nghề cá bền vững và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam / Nguyễn Khắc Vượt // .- 2023 .- Số 11 (171) - Tháng 11 .- Tr. 77-85 .- 340

Chính sách hỗ trợ phát triển nghề cá hiện nay của Việt Nam bao gồm cả ưu đãi tín dụng cho ngư dân để phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ, làm gia tăng đội tàu một cách nhanh chóng, vượt quá mức khai thác trong vùng biển Việt Nam, có thể là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc suy giảm nguồn lợi thủy sản trong vùng biển Việt Nam, khiến ngư dân Việt Nam vượt tuyến sang vùng biển nước ngoài khai thác bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU). Bài viết tập trung phân tích chính sách hỗ trợ nghề cá của Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nghề cá Việt Nam theo hướng bền vững, phù hợp với các quy định của Tổ chức thương mại thế giới.

15 Bản chất pháp lí của tài sản mã hoá và tiền mã hoá / Nguyễn Thị Long // .- 2024 .- Số 1 .- Tr. 32-50 .- 340

Trong bối cảnh phát triển khoa học công nghệ hiện nay nhiều nghiên cứu cho rằng tài sản mã hoá, tiền mã hoá có đủ dấu hiệu được coi là tài sản mới, một số nghiên cứu lại không đồng tình. Việc xác định rõ bản chất pháp lí của tài sản mã hoá, tiền mã hoá là việc làm quan trọng góp phần xây dựng khung pháp lí điều chỉnh hiệu quả và phù hợp đối với loại tài sản này. Bài viết bàn về lịch sử hình thành và một số vấn đề lí luận cơ bản về tài sản mã hoá, tiền mã hoá, qua đó chỉ ra rằng tài sản mã hoá, tiền mã hoá có đặc trưng của quyền tài sản và có thể được ghi nhận là tài sản; tuy nhiên, Việt Nam chỉ có thể ghi nhận tài sản mã hoá, tiền mã hoá là tài sản nếu giải quyết được các thách thức đến từ đặc trưng riêng biệt của đối tượng này.

16 Hoàn thiện quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước / Phạm Thị Giang Thu, Nguyễn Thị Phương Thảo // .- 2024 .- Số 1 .- Tr. 51-63 .- 340

Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đang là xu hướng phát triển tất yếu trong quản trị nhà nước, trong đó có quản trị doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề này trở nên quan trọng trước thực trạng hàng loạt doanh nghiệp nhà nước hoạt động yếu kém, gây thất thoát số lượng lớn tài sản nhà nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó có sự chưa hoàn thiện của pháp luật. Bài viết phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước, trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện về phạm vi nội dung công khai, trách nhiệm giải trình cũng như nhận diện đủ hành vi vi phạm.

17 Xác định thẩm quyền tài phán trong giải quyết tranh chấp thương mại điện tử xuyên biên giới: Kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và bài học cho Việt Nam/ / Trần Thị Thu Phương // .- 2024 .- Số 1 .- Tr. 64-79 .- 340

Vấn đề xác định thẩm quyền tài phán luôn là mối quan tâm đối với các quốc gia. Từ nhiều thế kỉ nay, quan niệm truyền thống về thẩm quyền tài phán luôn gắn với yếu tố lãnh thổ. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển của thương mại điện tử, việc xác định thẩm quyền tài phán của tòa án quốc gia dường như không còn đơn giản, khi trong không gian mạng không tồn tại khái niệm lãnh thổ. Do vậy, việc sử dụng yếu tố lãnh thổ để xác định thẩm quyền tài phán của quốc gia trong không gian mạng nói chung và trong giải quyết các tranh chấp thương mại điện tử xuyên biên giới nói riêng cần phải được xem xét lại. Bên cạnh đó, việc tìm ra yếu tố kết nối khác là vấn đề đặt ra đối với tất cả các quốc gia. Bài viết giới hạn nghiên cứu ở thẩm quyền xét xử của toà án đối với các vụ việc phát sinh từ hoặc có liên quan đến các giao dịch với người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử xuyên biên giới. Trên cơ sở phương pháp so sánh luật học, bài viết tập trung phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ và kinh nghiệm của Liên minh châu Âu để đưa ra một số gợi ý tham khảo cho Việt Nam.

18 Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo Luật Công đoàn năm 2012 và một số kiến nghị / Nguyễn Hiền Phương // .- 2024 .- Số 1 .- Tr. 80-90 .- 340

Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn đóng vai trò quan trọng đối với sự hợp tác và ổn định quan hệ lao động. Bài viết phân tích khái quát về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo pháp luật Việt Nam; đánh giá quy định của Luật Công đoàn năm 2012 về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn và đưa ra một số đề xuất hoàn thiện Luật Công đoàn năm 2012 về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn

19 Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ thai sản trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 / Đỗ Thị Dung // .- 2024 .- Số 1 .- Tr. 91-101 .- 340

Chế độ thai sản là một trong năm chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, được quy định cụ thể trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, bao gồm các nội dung: Đối tượng áp dụng, điều kiện hưởng, các quyền lợi hưởng khi khám thai; sảy thai, nạo thai, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lí; sinh con; mang thai hộ và nhờ mang thai hộ; nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi; thực hiện các biện pháp tránh thai… Các quy định của Luật tuy đã hoàn thiện hơn so với trước song sau hơn 7 năm thực hiện đã dần bộc lộ một số bất cập, không còn phù hợp với thực tế. Trên cơ sở đánh giá các quy định về chế độ thai sản trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 cũng như thực tiễn thực hiện các quy định này trong thời gian qua ở Việt Nam, bài viết đề xuất một số ý kiến sửa đổi, bổ sung những điểm còn bất cập, nhằm góp phần hoàn thiện Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).

20 Công nhận thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực lao động theo án lệ của Hoa Kỳ và những gợi mở cho Việt Nam / Hoàng Quỳnh Hoa // .- 2024 .- Số 1 .- Tr. 102-117 .- 340

Thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực lao động tại Hoa Kỳ xuất hiện từ rất sớm trên cơ sở tiếp cận hợp lí từ các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại của Vương quốc Anh. Hiện nay, tại Hoa Kỳ thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực lao động được điều chỉnh bằng đạo luật của các bang và đặc biệt là án lệ của toà án. Theo án lệ của toà án, thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực lao động được sẽ được công nhận dựa trên ba tiêu chí chính đó là: 1) thoả thuận đã được thương lượng giữa người sử dụng lao động và người lao động; 2) người sử dụng lao động có lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ bởi thoả thuận hạn chế cạnh tranh; 3) nội dung của thoả thuận có tính hợp lí. Trên cơ sở phân tích các tiêu chí này qua một số án lệ của toà án Hoa Kỳ, bài viết gợi mở một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng khung pháp lí điều chỉnh về thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực lao động.